chia sẻ

TÂM LÝ HỌC THỜI CỔ ĐẠI


-         Những quan điểm của tâm lý học thời kỳ cổ đại

Quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài ngườibắt đầu từ cách đây khoảng 10 vạn năm. Qua các di chỉkhảo cổ từ thời kỳ nguyên thủy cho thấy rằng ngườinguyên thủy cũng đã quan tâm đến các hiện tượng tâm
lý, họ đã đ cập đến đời sống của “hồn” và “phách”.
Ngoài ra trong các kinh của Ấn Độ cổ đã có những nhậnxét v tính chất của hồn, đã có những ý tưởng sơ khai vtin khoa học tâm lý.

TÂM LÝ HỌC THỜI CỔ ĐẠI -NGUYỄN THU HỒNG ĐÀO TẠO CATHAY


Khổng Tử đã có những nhận xét khá sâu sắc v mối quan
hệ giữa trí nhớ và tư duy. Ông cho rằng chữ “tâm” của con
người là nhân, trí, dũng. Quan điểm này được các học trò
của ông phát triển thành “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”...
Trong thời kỳ này đã xuất hiện rất nhiu quan điểm và học thuyết khác nhau v tâm lý
con người, phụ thuộc vào các quan điểm v triết học và tôn giáo khác nhau.
Học thuyết duy tâm thời cổ đại
Học thuyết thời kỳ này quan niệm: Tâm lý là một hiện tượng
phi vật chất, là phần đối lập với cơ thể sống (phần xác).
Phần hồn do tạo hóa, Thượng đế sinh ra và được đặt vào
trong con người cụ thể lúc mới sinh ra. Phần hồn (linh
hồn) là bất tử. Khi con người ta mất đi chỉ có phần xác là
mất đi, còn phần hồn sẽ lìa khỏi xác tiếp tục sống luẩn
quẩn đâu đấy mà con người không thể biết được. Đại
diện tiêu biểu của trường phái này là nhà triết học duy
tâm cổ đại Platon (428 – 348 tr C.N).

Ông cho rằng: Tâm hồn là cái có trước, thực tại là cái có sau, tâm hồn do thượng
đế sinh ra. Tâm hồn trí tuệ nằm trong đầu và chỉ có ở giai cấp chủ nô. Tâm hồn
dũng cảm nằm ở ngực và chỉ có ở tầng lớp quý tộc, tâm hồn khát vọng nằm ở bụng
và có ở tầng lớp nô lệ.
Học thuyết duy vật cổ đại
Học thuyết thời kỳ này quan niệm tâm lý có nguồn gốc vật chất (được tạo ra từ các
chất nhất định). Điển hình cho trường phái này là Talet, Anaximen, Hêcralit... họ
quan niệm rằng tâm lý, tâm hồn cũng như vạn vật được cấu tạo từ các vật chất
như: Nước, lửa, không khí, đất. Đemocrit cho rằng tâm hồn là do nguyên tử cấu
thành, trong đó nguyên tử là cốt lõi tạo nên tâm lý. Thuyết ngũ hành cho rằng:
Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo nên vạn vật, trong đó có tâm lý. Nhà triết học cổ đại
Khổng Tử
Hy Lạp, Hypocrat quan niệm rằng tâm lý được cấu tạo bởi bốn chất lỏng: Máu ở
trong tim, nước nhớt ở trong não, mật vàng trong gan và mật đen trong dạ dày.
Tùy theo tỷ lệ pha trộn của bột chất trên mà mỗi người cụ thể có thể có những đặc
điểm tâm lý khác nhau...
Có thể nói trong thời kỳ cổ đại, những kết quả nghiên cứu sơ khai ban đầu trên đã mở
đường cho khoa học tâm lý phát triển. Tuy nhiên trong thời kỳ này, tâm lý vẫn chỉ là
một bộ phận của triết học, chưa đủ điu kiện tách ra để trở thành một ngành khoa học
độc lập.
Những quan điểm tâm lý học cho đến nửa đầu thế kỷ 19 (tâm lý học truyền thống)
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tâm lý học cũng tiếp tục phát triển nhanh
chóng. Đến giữa thế kỷ 19, tâm lý học đã chính thức trở thành một khoa học độc lập,
khẳng định vị trí của nó trong hệ thống các khoa học và có những thành tựu đáng kể.
Ở thời kỳ này xuất hiện rất nhiu tư tưởng tâm lý tiến bộ.

Thuyết nhị nguyên: Đại biểu cho trường phái này là
Đêcác. Ông cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực
thể tồn tại song song. Ông coi cơ thể phản xạ như một
chiếc máy. Còn bản thể tinh thần, tâm lý con người thì
không thể biết được. Ông là người đặt cơ sở đầu tiên
cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý.

Nội dung của cơ chế phản xạ có thể mô tả như sau:
Khi có một kích thích từ bên ngoài tác động vào một
giác quan nào đó sẽ gây ra một xung đột thần kinh đáp
lại thông qua cử động phản xạ của một cơ quan nào đó
trong cơ thể – cơ quan thực hiện phản xạ.
Nhà triết học Đức Vôn-phơ đã cho xuất bản cuốn “Tâm lý học kinh nghiệm” vào
năm 1732 và “Tâm lý học lý trí” năm 1734. Trong các tác phẩm này thuật ngữ tâm
lý học đã được sử dụng khá phổ biến, qua đó chứng minh được sự độc lập tương
đối của một phân ngành khoa học mới.
Học thuyết tiến hóa của Đac-uyn: Học thuyết này là cơ sở để giải thích sự phát triển
tâm lý của các loài sinh vật từ thấp đến cao và vai trò của tâm lý trong quá trình
thích nghi với môi trường để tồn tại và phát triển của các loài sinh vật.
Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Becoli và E.Makhơ cho rằng thế giới
không có thực mà chỉ là sự phức hợp của các cảm giác chủ quan của con người và
cho rằng con người không thể biết các cảm giác đó được hình thành như thế nào.
Hê ghen đưa ra ý niệm tuyệt đối và cho rằng tất cả vật chất đu có tư duy...
Phơ-bách cho rằng: Tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não bộ của con người.
Nó là sản phẩm vật chất phát triển tới mức độ cao.

Cuối thế kỷ 19 tâm lý học đã được phát triển như một môn khoa học thực nghiệm
Anh, Nga, Mỹ, Pháp... Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên do Vuntơ (Wundt) thành
lập ở Lai-xic (Đức) thành lập năm 1879. Thực chất đây là một phòng thí nghiệm
sinh lý – tâm lý và tâm lý học thời kỳ này mới được coi là một ngành khoa học độc

lập thực sự với triết học, có đối tượng, phạm vi nghiên cứu, chức năng và nhiệm vụ riêng.

                       ĐỌC PHẦN TIẾP THEO XIN BẤM  Vào đây

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

 
Ky nang ban hang ky-nang-ban-hang
10 10 1125 (c) by
Google kiến thức về bảo hiểm